PublishingPortal - Block_BanTin_Toolbar

01/12/2020
Tăng cỡ chữ Giảm cỡ chữ
Thực hiện tốt công tác dân số, tạo nền móng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội
Là tỉnh miền núi có quy mô dân số ít nhất toàn quốc, trong đó có trên 88% số dân là dân tộc thiểu số (DTTS), những năm qua, tỉnh Bắc Kạn đã quan tâm thực hiện công tác dân số, đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhanh và bền vững.

PublishingPortal - Block_BanTin_ViewData

Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 21/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới; Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, tỉnh Bắc Kạn đã tập trung chỉ đạo chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) sang thực hiện toàn diện cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số, với mục tiêu là duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số.

Trong công tác tuyên truyền, giáo dục về dân số, tỉnh đã tập trung tuyên truyền, vận động phù hợp với thực trạng mức sinh của từng vùng theo hướng: Sinh ít con ở vùng có mức sinh cao; sinh đủ hai con ở vùng có mức sinh thấp; tăng cường tuyên truyền về lợi ích KHHGĐ, quy mô gia đình nhỏ, không đẻ sớm, đẻ dày, thực hiện mỗi cặp vợ chồng sinh đủ hai con, duy trì khoảng cách giữa các lần sinh. Truyền thông về lợi ích của việc tầm soát, chẩn đoán và điều trị sớm bệnh, tật trước sinh và sơ sinh, vai trò của chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, thanh niên, tác hại của việc nạo phá thai; đặc biệt tập trung các nội dung truyền thông giảm thiểu tình trạng mang thai ngoài ý muốn và phá thai ở tuổi vị thành niên, thanh niên. Truyền thông hướng tới hình thành và phát triển phong trào chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (CSSKNCT); cung cấp thông tin về CSSKNCT tại cơ sở, hệ lụy của tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống đối với sức khỏe bà mẹ, trẻ em và giống nòi; cách chế biến thức ăn và chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai, bà mẹ có con dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì ...

Cùng với đó, ngành chức năng đã đẩy mạnh các hoạt động tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; các hoạt động truyền thông về giáo dục, cung cấp thông tin và tư vấn về nội dung chăm sóc SKSS/KHHGĐ như các vấn đề liên quan đến tình dục an toàn, bệnh lây truyền qua đường tình dục HIV/AIDS, các nguy cơ sinh con bị dị tật, khuyết tật bẩm sinh cho thanh niên nam, nữ chuẩn bị kết hôn ...


Ngành Y tế tổ chức tuyên truyền về mất cân bằng giới tính khi sinh tại Phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn

Công tác chăm sóc bà mẹ trẻ em nhất là tại các xã vùng DTTS được quan tâm. Hằng năm, tỉnh đã tổ chức các hoạt động hưởng ứng "Ngày vi chất dinh dưỡng 1 - 2/6", Tuần lễ “Dinh dưỡng và phát triển”; theo đó, 100% trẻ từ 6 - 60 tháng tuổi được uống vitamin A liều cao và hơn 95% bà mẹ được uống Vitamin A liều cao trong vòng 01 tháng đầu sau đẻ.

Để nâng cao chất lượng dân số, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS và KHHGĐ đã được quan tâm mở rộng từ tỉnh đến cơ sở. Chất lượng công tác chăm sóc SKSS, chăm sóc sức khỏe trẻ em ngày càng được nâng cao. Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa tỉnh với 02 khoa sản và khoa nhi được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị y tế hiện đại; đội ngũ nhân viên y tế có trình độ có thể thực hiện được các thủ thuật chăm sóc sản khoa, nhi khoa thiết yếu và thực hiện được một số dịch vụ kỹ thuật cao như cắt tử cung qua đường âm đạo, mổ nội soi, chụp tử cung vòi trứng, cấp cứu trẻ sơ sinh nhẹ cân... 8/8 trung tâm y tế huyện/thành phố có khoa ngoại sản, khoa nội nhi, có bác sĩ chuyên khoa cấp I về sản và nhi, được cung cấp các trang thiết bị để thực hiện các dịch vụ chăm sóc sản khoa và nhi khoa thiết yếu. 6/8 trung tâm y tế huyện có thể mổ lấy thai, mổ cấp cứu sản phụ khoa khác. 108/108 xã có trạm y tế được xây dựng và cung cấp đầy đủ trang thiết bị cần thiết thực hiện dịch vụ KHHGĐ; khám, quản lý thai nghén và khám chữa bệnh thông thường cho trẻ em. 58/108 trạm y tế xã thực hiện được các thủ thuật như đặt dụng cụ tử cung, cấy thuốc tránh thai; 31/108 xã thực hiện được thủ thuật hút thai; 79/108 trạm y tế xã có đỡ đẻ thường ngôi chỏm. 100% thôn bản có nhân viên y tế thôn bản đã qua đào tạo đang hoạt động. Những người hoạt động không chuyên trách và nhân viên y tế thôn, bản kiêm cộng tác viên dân số được đào tạo, tập huấn về kiến thức, kỹ năng thực hiện và cung cấp các dịch vụ chăm sóc SKSS ở cơ sở y tế và cộng đồng.

Nhờ đó, người dân trên địa bàn tỉnh từng bước tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe... được thuận tiện và dễ dàng hơn. Các dịch vụ KHHGĐ ngày càng dễ tiếp cận đã tác động tích cực đến việc kiềm chế tăng sinh và sinh con thứ ba trở lên, góp phần từng bước ổn định quy mô phát triển số dân và cải thiện chất lượng dân số, kiềm chế và giảm tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.

Theo số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở, quy mô dân số tỉnh Bắc Kạn thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 là 313.905 người, tăng thêm 20.079 người so với năm 2009. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 là 0,66%/năm.

Tổng tỷ suất sinh (TFR) của Bắc Kạn năm 2019 đạt 2,14 con/phụ nữ (năm 2016 là 2,4 con). Xu thế giảm sinh tiếp tục được duy trì, tỷ suất sinh thô toàn tỉnh giảm từ 18‰ năm 2016 đến năm 2019 còn 13,7‰; tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên bình quân hằng năm khoảng 8,3% trong tổng số trẻ sinh. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2016 là 1,89%, năm 2019 là 0,98%. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại năm 2016 là 79,3%; năm 2019 là 65%.

Về cơ cấu dân số, năm 2019, dân số từ 0 - 14 tuổi chiếm 25,4%; từ 15 - 64 tuổi chiếm 67,9%; trên 65 tuổi trở lên chiếm 6,7% trong tổng số dân, qua đó nhận thấy tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động gấp hai lần so với tỷ trọng dân số trong độ tuổi phụ thuộc, tỉnh Bắc Kạn đang ở trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”.

Tỷ số giới tính khi sinh năm 2016 là 106,1 bé trai/100 bé gái, năm 2019 là 112 bé trai/100 bé gái.

Về chất lượng dân số, các chỉ số sức khỏe của người dân được cải thiện, tuổi thọ bình quân năm 2016 là 72,4 tuổi; năm 2019 là 72,6. Các chỉ số về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em của tỉnh được cải thiện qua từng năm. Tỷ suất chết mẹ năm 2016 là 36,5/100.000 trẻ đẻ sống; năm 2019 là 43,3/100.000 trẻ đẻ sống. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi năm 2016 là 17,3 ‰; năm 2019 là 16,6%. Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi năm 2016 là 26‰, năm 2019 là 24,9‰.

Những kết quả đạt được của công tác dân số - KHHGĐ thời gian qua đã góp phần vào việc hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tại địa phương, đảm bảo an ninh chính trị, an sinh xã hội. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến nay, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên có chiều hướng gia tăng, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) mặc dù đã giảm song vẫn còn ở mức cao so với trung bình cả nước, chất lượng dân số chưa cao. Mức sinh giảm chưa vững chắc, còn tiềm ẩn nguy cơ tăng sinh trở lại.

Vì vậy, trong Kế hoạch hành động giai đoạn 2020-2025 thực hiện Chiến lược dân số đến năm 2030, tỉnh Bắc Kạn đã đề ra quy mô dân số đến năm 2025 đạt 356.700 người (tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1%); phấn đấu đạt và duy trì mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con); mạng lưới dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói chung và chăm sóc SKSS/KHHGĐ nói riêng được phủ kín đến xã, phường, thị trấn.

Đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp lý với tỷ số giới tính khi sinh dưới 110 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 9,8%.

Nâng cao chất lượng dân số, với tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khoẻ trước khi kết hôn đạt 50%; giảm 50% số cặp tảo hôn và số cặp hôn nhân cận huyết thống; 40% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh, tật bẩm sinh phổ biến nhất; 60% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất; tuổi thọ bình quân đạt 74,5 tuổi, trong đó thời gian sống khoẻ mạnh đạt tối thiểu 67 năm; trên 90% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, được khám chữa bệnh, chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung; chiều cao trung bình người 18 tuổi đối với nam đạt 167 cm, nữ đạt 156 cm. Phấn đấu chỉ số phát triển con người (HDI) của tỉnh bằng mặt bằng chung của cả nước.

Thúc đẩy phân bố dân số hợp lý và bảo đảm quốc phòng, an ninh với tỷ lệ dân số đô thị đạt trên 20%. 

Hoàn thành xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đẩy mạnh lồng ghép các yếu tố dân số vào xây dựng và thực hiện phát triển kinh tế - xã hội với 90% dân số của tỉnh được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc.

Phát huy tối đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững với mục tiêu tăng tối đa số lượng việc làm, nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo, cải thiện chất lượng việc làm; đảm bảo mọi người lao động đều được chăm sóc sức khỏe và có sức khỏe tốt.

Thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh CSSKNCT với chỉ tiêu 20% số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí môi trường thân thiện với người cao tuổi; 30% người cao tuổi trực tiếp kinh doanh tăng thu nhập, giảm nghèo có nhu cầu hỗ trợ được hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, hỗ trợ phương tiện sản xuất chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, vay vốn phát triển sản xuất; 90% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khoẻ, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung.

Để thực hiện các mục tiêu trên, cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới truyền thông, vận động về dân số; thực hiện tốt các cơ chế, chính sách về dân số; phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số; bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số;..., tỉnh sẽ tiếp tục triển khai thực hiện tốt các chương trình, dự án, đề án như: Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh; Đề án CSSKNCT; Đề án “Tăng cường tư vấn và cung cấp dịch vụ dân số - KHHGĐ cho vị thành niên, thanh niên”; mô hình Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; hoạt động tầm soát, chẩn đoán trước sinh, sơ sinh; nâng cao chất lượng thông tin cơ sở dữ liệu; tổ chức cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng dân số.../.

Bích Huệ