PublishingPortal - Block_BanTin_Toolbar

Tăng cỡ chữ Giảm cỡ chữ
Phùng Chí Kiên - Người chỉ huy quân sự đầu tiên của Đảng
108 năm trước, vợ chồng một nông dân ở tổng Vạn Phần (nay là xã Diễn Yên), huyện Diễn Châu, Nghệ An sinh một người con mà sau này trở thành vị tướng đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Người đó là đồng chí Phùng Chí Kiên, bậc tiền bối cách mạng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

PublishingPortal - Block_BanTin_ViewData

 Phùng Chí Kiên (1901-1941)

Năm 1901, lúc mới ra đời, Phùng Chí Kiên được đặt tên là Nguyễn Vĩ. Nhà nghèo, nhưng ở vùng quê giàu truyền thống văn hiến nên anh vẫn được cha mẹ cho đi học sớm để trở thành một thanh niên có học. Nguyễn Vĩ sớm giác ngộ cách mạng, tích cực tham gia nhóm đọc sách báo tiến bộ ở quê nhà. Nhà anh cũng là một cơ sở của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội.

Tròn 14 tuổi, Nguyễn Vĩ rời quê đi làm công nhân ở thị xã Vinh. Thời gian này, Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) đã cử cán bộ về Nghệ Tĩnh hoạt động. Nhiều thanh niên, học sinh ở đây được giác ngộ, đưa sang Quảng Châu học tập. Năm 1925, Nguyễn Vĩ bắt liên lạc với các bạn đồng hương ở Hương Cảng, trong đó có Lê Huy Doãn (tức Lê Hồng Phong), Phạm Thành Tích (tức Phạm Hồng Thái). Những thanh niên tâm huyết cách mạng này trở thành những thành viên đầu tiên của Tâm Tâm Xã do đồng chí Hồ Tùng Mậu đứng đầu. Khi nắm rõ cương lĩnh hành động của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, anh đã tự nguyện tham gia.

Tháng 10/1926, Nguyễn Vĩ được tổ chức cử đến Quảng Châu, vào học lớp huấn luyện chính trị đầu tiên dành cho những hội viên ưu tú của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở. Anh đổi tên là Phùng Chí Kiên, với nghĩa là “sự tương phùng hội ngộ, sự gặp gỡ giữa chí khí và lòng kiên trung”. Sau khóa học, Phùng Chí Kiên được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử vào học trường võ bị Hoàng Phố của Tôn Trung Sơn. Năm sau, do Tưởng Giới Thạch phản bội, nhà trường bị đóng cửa. Phùng Chí Kiên cùng với cán bộ cách mạng Việt Nam đứng về phía Đảng Cộng sản Trung Quốc chống lại hành động phản cách mạng của bọn quân phiệt. Đồng chí gia nhập quân cách mạng và tham gia bạo động Quảng Châu (ngày 12/12/1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Cuộc bạo động thất bại, quân cách mạng rút về xây dựng khu Xô-viết ở hai huyện Hải Phong và Lục Phong. Với cương vị là đại đội trưởng, Phùng Chí Kiên đã cùng cán bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc chịu đựng gian khổ, kiên trì bảo vệ cách mạng. Trên mặt trận chống bọn quân phiệt, Phùng Chí Kiên đã nổi danh là người chỉ huy quân sự tinh tế, nhạy bén, ứng phó linh hoạt khi xử trí các tình huống chiến đấu.

Tháng 2/1931, được sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, Phùng Chí Kiên sang học trường đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Nhưng khi đến Mãn Châu, đồng chí bị bọn phát-xít Nhật bắt giam gần một năm. Ra tù, Phùng Chí Kiên tiếp tục sang Liên Xô học. Với quyết tâm cao, đồng chí ra sức học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước của nhân dân Liên Xô để sau này vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.

Đầu năm 1934, Phùng Chí Kiên về Hương Cảng (Trung Quốc) tham gia Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong đứng đầu. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (tháng 3/1935), đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được cử làm Ủy viên thường vụ của Đảng.

Tháng 8/1936, Phùng Chí Kiên được cử về Sài Gòn cùng đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản và Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 16/7/1936, nhằm đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình. Nhưng một năm sau, do yêu cầu mới của cách mạng, Lê Hồng Phong về Sài Gòn hoạt động, Phùng Chí Kiên lại sang Trung Quốc chỉ đạo công tác Đảng ở nước ngoài.

Đầu năm 1940, Bác Hồ đến Côn Minh. Thời gian này, Phùng Chí Kiên được làm việc gần Bác, nhiều lần đưa Người đến các nơi như Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn, Chi Thôn... thuộc tỉnh Vân Nam.

Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng Đức, Nhật nhảy vào Đông Dương. Thực hiện chỉ thị của Bác, Phùng Chí Kiên họp Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài bàn việc vận động thành lập hội Việt Nam độc lập đồng minh, rồi cùng với Bác chuyển tới Tĩnh Tây, một thị trấn thuộc tỉnh Quảng Tây giáp biên giới Trung Quốc-Việt Nam.

Ngày 28/1/1941, Phùng Chí Kiên theo Bác về Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Ở đây, đồng chí hoạt động bên cạnh Bác và đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, bảo vệ khu căn cứ. Để có tài liệu giảng dạy cho cán bộ địa phương, Bác Hồ lại giao cho đồng chí soạn thảo các bài viết về “Con đường giải phóng dân tộc”, trong đó có các bài viết về đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng, chiến thuật chiến tranh du kích. Đồng chí đã tích cực tham gia vào việc tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi.

Đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941), Phùng Chí Kiên tiếp tục là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, được cử phụ trách quân sự, trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và trung đội Việt Nam cứu quốc quân thứ nhất.

Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, gây tiếng vang lớn trong cả nước, làm thực dân Pháp điên đầu, ra sức tìm cách đối phó. Cuối tháng 6/1941, chúng mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ cách mạng của ta nhằm bắt các đồng chí lãnh đạo Đảng, tiêu diệt cơ quan đầu não của Việt Minh và lực lượng vũ trang cách mạng mới hình thành. Chúng huy động tới 4.000 quân, đủ các sắc lính cùng bọn cường hào phản động địa phương, tổ chức tấn công khu căn cứ. Đi tới đâu chúng cũng đốt sạch làng bản, giết gia súc, phá vườn cây ăn quả. Chúng triệt hạ các bản lẻ như Khuôn Khét gồm 16 gia đình người Dao. Chúng thi hành chính sách “tát nước bắt cá” thâm độc, dồn dân tập trung vào các trại Đình Cả, Nà Pheo, Làng Giữa, Đồng Án.

Không khí khủng bố căng thẳng đến nghẹt thở. Các cơ sở bí mật của Trung ương và Cứu quốc quân bị uy hiếp nghiêm trọng. Trong cuộc họp khẩn cấp tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ), Ban chỉ huy Cứu quốc quân quyết định cử một tổ bảo vệ và dẫn các đồng chí Trung ương qua Tràng Xá về xuôi, còn toàn đội phối hợp với tự vệ chiến đấu hoạt động phân tán, bám dân, duy trì, bảo vệ cơ sở cách mạng. Phùng Chí Kiên chỉ huy đội Cứu quốc quân Bắc Sơn chiến đấu anh dũng, phá một số trận càn lớn của địch, góp phần giữ vững tinh thần cách mạng của nhân dân trong vùng, điển hình là trận chống càn ở Giá Huần (Vũ Lễ). Cứu quốc quân tuy cố gắng nhiều nhưng phải di chuyển luôn, tiếp tế khó khăn, sức lực giảm dần. Ban lãnh đạo căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định để lại một tiểu đội chặn địch, còn hai tiểu đội phá vòng vây, rút lên Cao Bằng để bảo toàn lực lượng.

Ngày 19/8/1941, cánh quân do đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri, Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, chỉ huy qua Pò Kép (châu Na Rì, Bắc Kạn) thì bị địch phục kích, nhưng đơn vị thoát được. Ngày 21/8, đơn vị lại bị phục kích tại xã Bằng Đức. Bọn châu đoàn phản động ở đây huy động lính dõng khép kín vòng vây. Đồng chí Lương Văn Tri bị thương, chúng bắt về giam ở Cao Bằng và hy sinh trong tù. Mặc dù bị thương nặng, đồng chí Phùng Chí Kiên vẫn giữ chặt khẩu súng, bắn chặn quân địch để đồng đội thoát khỏi vòng vây. Bắn hết viên đạn cuối cùng, đồng chí sa vào tay giặc. Bọn châu đoàn lệnh cho lũ tay sai mặc sức hành hung. Đồng chí bình tĩnh giải thích:

- Chúng tôi là người yêu nước đi đánh Pháp, đuổi Nhật để giải phóng đồng bào. Chúng ta là người Việt Nam, cần phải đoàn kết chống kẻ thù chung.

Lời giải thích của đồng chí làm xiêu lòng một số lính dõng. Nhưng bọn châu đoàn gian ác đã chặt đầu đồng chí đem nộp cho quân Pháp để lấy thưởng. Bọn thực dân Pháp đem đầu đồng chí cắm ở đầu cầu Ngân Sơn để hòng uy hiếp tinh thần cán bộ, nhân dân địa phương. Hôm đó là ngày 22-8-1941, năm đồng chí Phùng Chí Kiên tròn 40 tuổi.

Hai năm sau ngày đồng chí Phùng Chí Kiên hy sinh, trong báo Cờ giải phóng, số 2, ra ngày 26/8/1943, đồng chí Trường Chinh, lúc đó là Tổng bí thư của Đảng đã viết bài ghi nhận: “Anh Phùng hay anh Lý vĩnh biệt chúng ta đã hai năm rồi!... Thế là một chiến sĩ tài ba, lỗi lạc đã bỏ mình nơi ngàn cây dặm cỏ… Cái chết của anh là một sự thiệt thòi cho Đảng. Nó còn gieo biết bao nỗi thương tiếc cho các đồng chí. Anh Phùng đã khuất. Nhưng tinh thần anh vẫn sống mãi với non sông, cây cỏ. Chúng ta càng nhớ đến anh, càng phải nỗ lực chiến đấu để chóng hoàn thành sự nghiệp vĩ đại của Đảng mà anh đã hoàn toàn ký thác nơi chúng ta”.

Ngày 23/7/1947, đánh giá công lao của đồng chí Phùng Chí Kiên, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 89/SL truy phong cấp tướng cho đồng chí. Đây là sắc lệnh phong tướng đầu tiên của Nhà nước ta.

Tháng 11/2003, đồng chí Phùng Chí Kiên được Đảng, Chính phủ ra quyết định công nhận là nguyên Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng (khóa 1), cán bộ lãnh đạo quân đội cấp tướng, liệt sĩ hy sinh anh dũng trong chiến đấu.

 
Theo qdnd.vn

PublishingPortal - Block_TinTuc_TinLienQuan