Độ tương phản
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đồng loạt nổi dậy, tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, để đến ngày 19/8/1945, kết thúc hơn 80 năm Nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít, đất nước giành được độc lập, Nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, qua đó để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử cách mạng Việt Nam
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
Từ đây, đất nước Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đây là một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong sự cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa to lớn đó là: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và thiên tài Hồ Chí Minh đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc tiên phong trong trận chiến đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa thực dân trên thế giới. Cách mạng Tháng Tám khẳng định tầm vóc quốc tế to lớn, góp phần cổ vũ các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới đứng lên giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám một lần nữa khẳng định vai trò và tính tất yếu sự lãnh đạo của Đảng và thiên tài Hồ Chí Minh đã đưa Đảng ta lên vị trí Đảng cầm quyền. Đảng đã lãnh đạo toàn dân, tiến hành xây dựng lực lượng, tạo thời cơ, chớp thời cơ khi tình hình trong nước và quốc tế thuận lợi để lãnh đạo Tổng khởi nghĩa. Sự cầm quyền của Đảng không tự nhiên mà nó phải là sự phấn đấu hy sinh to lớn của các chiến sĩ cách mạng, là được Nhân dân tin yêu và che trở.
Một số thế lực thù địch hằn học với thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám của ta mà rêu rao rằng: Đảng đã cướp công từ tổ chức khác; rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chỉ là sự ăn may... Đó đâu phải là cướp công, ăn may mà thực tiễn chứng minh là kết quả của đường lối cách mạng đúng đắn từ bản lĩnh và trí tuệ của Đảng và thiên tài Hồ Chí Minh và sự phấn đấu, hy sinh anh dũng của biết bao chiến sĩ cộng sản, những người yêu nước và của dân tộc, với quan điểm “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đó là sự cầm quyền của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là tất yếu khách quan, chính đáng, là sự lựa chọn của lịch sử và Nhân dân.
Những bài học kinh nghiệm và sự vận dụng trong tình hình hiện nay
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi nổi bật và vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, là mốc son chói lọi trong lịch sử ngàn năm của dân tộc ta. Đó chính là thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần đấu tranh quật cường của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong đó có bài học về xây dựng Đảng là cốt lõi quyết định cách mạng Việt Nam.
Một là, bài học về xây dựng Đảng. Có thể nói ngay từ những ngày đầu khó khăn, gian khổ của cách mạng Đảng ta đã nhận lấy vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với bản lĩnh trí tuệ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng, thể hiện: Ra đời được15 năm, với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã trải qua 4 cuộc vận động cách mạng lớn: Cao trào cách mạng 1930 - 1931; Đấu tranh khôi phục phong trào cách mạng 1932 - 1935; Đấu tranh dân chủ 1936 - 1939; Cao trào cách mạng trực tiếp đấu tranh giành chính quyền 1939 - 1945. Hoạt động trong điều kiện thực dân Pháp và bè lũ tay sai đàn áp, khủng bố ác liệt, nhiều lần, nhiều tổ chức của Đảng bị phá vỡ, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng bị bắt và bị giết hại, nhưng Đảng vẫn nhen nhóm được ngọn lửa cách mạng, kiện toàn lại các tổ chức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng được thử thách, rèn luyện trong thực tế đặc biệt hiểm nghèo, kể cả thử thách về sự sống và cái chết. Trong 15 năm có tới 4 Tổng Bí thư của Đảng bị bắt và sát hại (các đồng chí: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ). Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị một án tử hình vắng mặt do Tòa án Vinh (Nghệ An) xử vào cuối năm 1929 tại Vinh, Nghệ An; bị chính quyền thực dân Anh tại thuộc địa Hồng Kông kết án tù từ giữa năm 1931 đến đầu năm 1933 và chính quyền Tưởng Giới Thạch tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc kết án tù từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943.
Vượt lên trên tất cả những khó khăn đó, Đảng đã chủ động xây dựng được cương lĩnh, đường lối và các chương trình hành động đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Đảng luôn lấy lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ Nam cho hành động trong cuộc đấu tranh thực hiện khát vọng giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng trong tháng 8 năm 1945 là sức mạnh của Đảng được xây dựng trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ đó, khi Đảng kêu gọi Nhân dân đứng lên làm cuộc cách mạng thì muôn người như một, đoàn kết thành sức mạnh vô cùng to lớn, lực lượng Tổng khởi nghĩa nhanh chóng lan nhanh trên toàn quốc chỉ trong vài tuần lễ đã đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng bài học này trong tình hình hiện nay trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ nhằm xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu cần nhận thức và nêu gương hành động để chứng tỏ rằng, Đảng xứng đáng với niềm tin của nhân dân với vị trí vai trò và trách nhiệm Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội. Dân tin Đảng, Đảng tin Dân vẫn là bài học nóng hổi từ Cách mạng Tháng Tám để vượt qua khó khăn, thách thức hoàn thành sứ mệnh mà Nhân dân tin tưởng, giao phó.
Đảng phải xây dựng đường lối đúng và đề ra những chủ trương phù hợp; tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là xây dựng Nhà nước của nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng phải kiên định lý luận Mác - Lênin, nắm chắc tình hình trong nước và quốc tế để giải quyết các mối quan hệ trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động khó lường.
Đảng phải đấu tranh không khoan nhượng với những hành vi tham nhũng, suy thoái về đạo đức, lối sống, thoái hóa biến chất, “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” vi phạm pháp luật. Gương mẫu trong lời nói và việc làm, gần dân sát dân, phấn đấu vì lợi ích của Nhân dân. Phát huy vai trò lãnh đạo cán bộ, đảng viên đặc biệt là người đứng đầu trong điều kiện kinh tế khó khăn hiện nay cần phải thực hiện 6 dám: dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Tránh tình trạng lợi ích nhóm, cơ hội thu vén cá nhân, ưu ái họ hàng, đồng thời chống biểu hiện sợ sai không dám làm gì.
Hai là, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc của khối liên minh công - nông, đấu tranh vì độc lập, tự do.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi mới thành lập và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh cách mạng, Đảng đã rất chú trọng việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Từ năm 1930 đến năm 1941, qua nhiều chặng đường thể nghiệm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đặc biệt với sự ra đời của mặt trận Việt Minh (năm 1941) đã đảm bảo cho khối đại đoàn kết dân tộc được tạo dựng vững chắc và sâu rộng. Với chủ trương đúng đắn là “liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập...”, cùng phương thức tổ chức đa dạng, phong phú, mặt trận Việt Minh đã trở thành hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp Nhân dân đứng vào hàng ngũ của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chính quyền về tay Nhân dân.
Có thể nói khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là công nông trí - nhân tố đặc biệt quan trọng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, càng quan trọng hơn trong sự nghiệp cách mạng giai đoạn hiện nay trong một thế giới hội nhập, toàn cầu hóa; trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để biến nước ta thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Theo tinh thần bài học Cách mạng Tháng Tám, đoàn kết cần được xây dựng trên cơ sở của cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng sự đồng thuận xã hội, tôn trọng những ý kiến riêng của cá nhân miễn là những ý kiến đó không làm tổn hại chung cho sự phát triển của đất nước.
Đoàn kết trong giai đoạn cách mạng hiện nay còn cần cả sự tích cực giáo dục chính trị, nâng cao sự giác ngộ về tinh thần yêu nước; đấu tranh chống lại các quan điểm và hành động sai trái của các thế lực thù địch và chống lại tất cả những hành động làm tổn hại đến sự đoàn kết toàn dân tộc, chống lại sự kích động hằn thù dân tộc, chống lại mọi tiêu cực trong hệ thống chính trị và ngoài xã hội.
Ba là, kịp thời tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ, vận dụng linh hoạt chủ động, sáng tạo tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.
Muốn có thời cơ thì phải biết tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến thì phải tận dụng nắm thời cơ và tranh thủ thời cơ, không được bỏ lỡ. Đây là nội dung có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 1945 là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong đánh giá và nhận định chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc nắm bắt thời cơ được thể hiện ngay khi Đảng đưa ra những dự báo về tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân. Khi phát xít Nhật nổ súng lật đổ thực dân Pháp ở Đông Dương (ngày 9/3/1945), với chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945), Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng đã nhận định tình hình và dự đoán hai tình huống có thể diễn ra: thứ nhất là, quân đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; thứ hai là, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Và tình hình đã diễn ra đúng như dự đoán thứ hai của Đảng ta, ngày 14/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện đã khiến cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê liệt. Đến đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn có khả năng thống trị như cũ được nữa, thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải hành động mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng không thể được bởi lúc này quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa đồng minh. Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền và chỉ từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức, phương pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tuyên truyền kết hợp với bạo lực cách mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi một cách nhanh, gọn, và thành công triệt để.
Vận dụng quan điểm đó hiện nay Đảng ta cần phải đánh giá đúng tình tình, có quyết sách đúng đắn phù hợp với thực tiễn với xu thế thời đại. Biết hành động tạo ra thời và chớp lấy thời cơ để hành động, đây là yêu cầu cấp thiết để hành động có hiệu quả.
Phát huy vai trò trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc nhìn nhận, phân tích, đón bắt, tận dụng tốt thời cơ, trong bối cảnh hiện nay. Sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, không cho phép chúng ta ngồi chờ mà cần phải hành động và có những quyết sách để đi tắt, đón đầu. Do đó, nhiệm vụ của công tác dự báo đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia. Dự báo phải sát, đúng thì mới có giải pháp hiệu quả trong các quyết sách. Phát huy nội lực, kết hợp tốt nội lực với ngoại lực tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Bốn là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến.
Ngay từ khi Đảng ta mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Chính từ phương hướng đó, trong quá trình lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành chính quyền, xuất phát từ thực tế nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng đầu, Đảng đã linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa chống đế quốc và phong kiến, trong đó xác định đặt nhiệm vụ giành độc lập dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp thực hiện từng bước thích hợp ở từng giai đoạn, tùy thuộc vào tiến trình giải phóng dân tộc. Chính sự linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chống đế quốc và phong kiến trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã đáp ứng đúng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách của toàn dân tộc và đã giúp cho Đảng huy động được sức mạnh của toàn dân tộc cùng quyết tâm chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ, quá trình thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, nước ta cũng phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu cách mạng, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng Nhân dân, vì lợi ích của quần chúng Nhân dân. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là chủ trương nhất quán, đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Đảng ta cần xử lý tốt mối quan hệ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, dân tộc và thời đại. Do đó, mọi luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH, đòi xóa bỏ CNXH… đều đi ngược lại quyền lợi, lợi ích của Nhân dân, dân tộc. Các luận điệu này cần phải bị vạch trần và đấu tranh, loại bỏ.
Kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh ngày 2/9, giúp chúng ta càng nhận thức đầy đủ hơn về vai trò lãnh đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại về vai trò của quần chúng Nhân dân đối với cách mạng… Từ đó xác định trách nhiệm của các thế hệ hôm nay trong việc vận dụng sáng tạo, phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá của Cách mạng Tháng Tám vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Góp phần đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, tự do, độc lập và giàu mạnh, theo như mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII./.
Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy lần thứ 78 (khóa XII) (15/11/2024)
Tích cực thực hiện “Năm hành động vì sự hài lòng của người dân” (15/11/2024)
Đồng chí Nguyễn Long Hải, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng dự Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc tại Bản Bung (14/11/2024)
Ấm lòng những ngôi nhà "Đại đoàn kết" (13/11/2024)
Để các dự án HĐND tỉnh cho chủ trương đầu tư phát huy hiệu quả (13/11/2024)