Độ tương phản
Là tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội, dân tộc thiểu số chiếm trên 86%, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao, công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động tín dụng chính sách xã hội luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm trong triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp ủy, chính quyền địa phương trong tỉnh.
Nguồn vốn vay của Chi nhánh Ngân hàng CSXH tỉnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người nghèo và các đối tượng chính sách khác
Hằng năm, tỉnh đã cân đối, ưu tiên bố trí nguồn vốn từ ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội để bổ sung nguồn vốn cho vay đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Từ năm 2015 - 2024, HĐND tỉnh đã phân bổ gần 59 tỷ đồng từ ngân sách cấp tỉnh uỷ thác qua Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh.
Cùng với nguồn vốn cấp bổ sung từ ngân sách Trung ương, trong 10 năm qua, toàn tỉnh đã thực hiện giải ngân cho vay đạt trên 7.012 tỷ đồng với 170.143 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn. Trong đó, giai đoạn 2015 - 2019, thực hiện giải ngân cho vay đạt 2.974 tỷ đồng với 93.892 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn); giai đoạn 2020 - 2024, giải ngân cho vay đạt 4.038 tỷ đồng với 76.251 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn.
Thông qua thực hiện chính sách tín dụng xã hội, toàn tỉnh đã có 22.676 hộ thoát nghèo; 1.110 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn đi học; 19.483 lao động được tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm; 3.616 lao động được đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; 67.457 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường, 1.390 căn nhà cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được xây dựng.
Thời gian qua, cùng với đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tạo điều kiện để các đối tượng được tiếp cận chính sách, hạn chế “tín dụng đen”, tỉnh đã quan tâm củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách thông qua việc kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Tổ tiết kiệm và vay vốn, nâng cao năng lực của đội ngũ Ban Quản lý Tổ tiết kiệm và vay vốn; chỉ đạo thành lập Tổ đôn đốc thu hồi nợ khó đòi cấp xã để tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn, lãi tồn đọng. Cùng với đó, tỉnh dã thường xuyên chỉ đạo thực hiện tốt công tác xử lý nợ bị rủi ro do nguyên nhân khách quan, đảm bảo việc xử lý nợ bị rủi ro chính xác, kịp thời, tạo điều kiện để người vay tiếp tục vay vốn đầu tư khôi phục sản xuất, kinh doanh, vươn lên thoát nghèo, tránh nguy cơ tái nghèo…
Nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, tỉnh cũng đã quan tâm chỉ đạo thực hiện lồng ghép nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội với các chương trình, dự án của các tổ chức chính trị - xã hội triển khai trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các chương trình, dự án phục vụ sản xuất theo Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm OCOP, mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, mô hình liên kết nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội; qua đó đã giúp trên 44 nghìn lượt hộ nghèo thoát nghèo bền vững và vươn lên làm giàu, tính riêng giai đoạn 2014 - 2023 đã có gần 23 nghìn lượt hộ nghèo thoát nghèo bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được, công tác tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh còn một số hạn chế, khó khăn, như nguồn vốn chưa thực sự đa dạng, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế; vốn ủy thác tại một số địa phương, nguồn vốn có nguồn gốc từ thiện và các nguồn vốn hợp pháp khác chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn; hiệu quả tín dụng ở một số vùng, địa phương còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn cao; quy mô đầu tư còn nhỏ lẻ, mang tính hộ gia đình, chưa gắn kết với mô hình, dự án liên kết theo chuỗi, thiếu sự hỗ trợ đầu ra ổn định, bền vững; việc chuyển đổi số của Ngân hàng Chính sách xã hội còn hạn chế…
Trong bối cảnh tình hình mới, nhất là những tác động phức tạp, khó lường của các vấn đề an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, cùng với quyết tâm đạt được mục tiêu trở thành nước xã hội chủ nghĩa có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, thu nhập cao vào năm 2045 đang đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội. Ngày 30/10/2024, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới, trong đó tiếp tục khẳng định: “Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần thực hiện hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; góp phần giảm nghèo nhanh, bền vững, xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân, qua đó ngày càng củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đây là "điểm sáng", một trong những "trụ cột" của hệ thống các chính sách an sinh xã hội, minh chứng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW của Ban Bí thư, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch thực hiện, trong đó quán triệt 8 nhiệm vụ trọng tâm:
(1). Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo phổ biến, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội. Xác định công tác tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị, địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp đã đề ra.
(2). Tiếp tục tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đối với tín dụng chính sách xã hội, nhất là người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Qua đó, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về vị trí, vai trò của tín dụng chính sách xã hội.
(3). Tăng cường công tác phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong xây dựng, triển khai các chương trình tín dụng chính sách xã hội; đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm; xây dựng và nhân rộng mô hình, điển hình sản xuất, kinh doanh giỏi, sử dụng vốn vay hiệu quả. Các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục thực hiện tốt các hoạt động nhận ủy thác từ Ngân hàng Chính sách xã hội.
(4). Nghiên cứu, xây dựng cơ chế lồng ghép tín dụng chính sách xã hội với các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, chính sách an sinh xã hội; tăng cường hỗ trợ tín dụng đối với các hoạt động sản xuất theo chuỗi, liên kết hợp tác nhằm thay đổi phương thức sản xuất, tăng hiệu quả sử dụng vốn cho người nghèo. Căn cứ vào điều kiện của tỉnh, tiếp tục quan tâm, bố trí ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội; phấn đấu hằng năm chiếm khoảng 15-20% tăng trưởng dư nợ tín dụng chung của Ngân hàng Chính sách xã hội và đến năm 2030 chiếm 15% tổng nguồn vốn.
(5). Chú trọng việc triển khai, cung cấp tín dụng chính sách xã hội cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh; đối tượng học sinh, sinh viên nghèo và các trường hợp khẩn cấp khác. Thực hiện mức ưu đãi cao nhất dành cho hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi; hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác. Trong đó, mức ưu đãi được điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế.
(6). Tiếp tục ưu tiên tập trung nguồn lực, đa dạng hóa các kênh huy động vốn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội. Triển khai thực hiện có hiệu quả mô hình tổ chức và phương thức quản lý tín dụng chính sách xã hội đặc thù; thực hiện tốt việc huy động, quản lý và sử dụng vốn hiệu quả; nâng cao chất lượng, hiệu lực hệ thống kiểm tra, giám sát, năng lực dự báo, phân tích; nâng cao khả năng cảnh báo sớm đối với những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội. Trích lập dự phòng rủi ro, xử lý nợ bị rủi ro bảo đảm an toàn nợ, phù hợp với đặc thù, tính chất hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội.
(7). Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, đối với hoạt động huy động, quản lý và sử dụng vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kiểm soát và phòng ngừa rủi ro có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Thường xuyên rà soát, đánh giá hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn.
(8). Xây dựng đội ngũ cán bộ Ngân hàng Chính sách xã hội có năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, uy tín, phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, tận tâm, tận tụy phục vụ người dân. Thực hiện đơn giản hoá trình tự, thủ tục vay vốn, đa dạng hoá sản phẩm, phát triển các loại hình dịch vụ phù hợp, hiện đại hoá công tác quản trị điều hành. Đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng nền tảng ngân hàng số, số hoá quy trình quản lý và tổ chức thực hiện chính sách; bảo đảm an ninh, an toàn, bảo mật, chú trọng thực hiện kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành để cập nhật và quản lý đối tượng thụ hưởng tín dụng chính sách xã hội.
Để cụ thể hóa các nhiệm vụ theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh đang tập trung nghiên cứu, tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tín dụng trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới./.
Đầu tư 390 công trình hạ tầng thiết yếu vùng đồng bào dân tộc thiểu số năm 2025 (01/03/2025)
Đa dạng các mô hình giảm nghèo tại Ngân Sơn (20/02/2025)
Năm 2025: Tiếp tục thực hiện hiệu quả các mục tiêu giảm nghèo bền vững (14/02/2025)
Giảm nghèo đa chiều - bao trùm - bền vững (15/01/2025)
Huy động được gần 43 tỷ đồng ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” trong năm 2024 (14/01/2025)